Vừa qua, thế giới lại thêm một lần nhớ tới cụm từ “Skynet” khi DARPA cho ra mắt thêm một mẫu robot Atlas với hình dạng người hết sức “hầm hố”. Với chiều cao 1,8 m và 28 khớp thủy lực, đây tiếp tục là một bước tiến dài trong ngành công nghiệp chế tạo robot. Nhưng phần vẻ ngoài hầm hố này mới chỉ là bước khởi đầu. Cốt lõi của dự án nằm trong hệ thống trí tuệ nhân tạo và thần kinh điều khiển mà DARPA đang phát triển bằng cách tổ chức một cuộc thi phát triển cho 26 nhóm nghiên cứu từ khắp nơi trên thế giới. Sản phẩm của các nhóm này sẽ được DARPA sử dụng làm nền tảng để tiến xa hơn trong việc xây dựng cho mẫu robot này một “bộ não” đủ thông minh để hỗ trợ con người trong mọi lĩnh vực đời sống.
Tuy tạm thời chúng ta có thể yên tâm rằng con đường tạo ra một “Kẻ hủy diệt” hoàn thiện như trên phim ảnh vẫn còn rất xa vời. Nhưng sự thật là các công nghệ về cảm biến, cơ khí, mô phỏng cơ bắp, cơ chế điều khiển… đang tiến bộ rất nhanh từng ngày, đem các mẫu robot mới càng lúc càng tiến gần hơn tới con người. Hãy cùng nhìn lại 30 năm phát triển của ngày công nghiệp đầy tiềm năng này.
Cơ cao su nhân tạo 1967
Năm 1967, các mẫu cơ nhân tạo đầu tiên đã được tiến sĩ Ichiro Kato và các cộng sự phát triển tại Đại Học Waseda – Nhật bản, đặt nền móng cho sự phát triển của ngành công nghiệp robot sau này. Sau một thời gian thử nghiệm, nhóm cuối cùng đã khiến các sợi cao su sắp xếp đang xen theo chiều dọc sinh ra được hiệu ứng tương tự như các bó cơ thật.
WL-3, 1968
Sau quá trình nghiên cứu cơ chế hoạt động của phần thân dưới cơ thế, nhóm nghiên cứu của đại học Waseda tiếp tục chế tạo thành công cỗ máy với khả năng bước đi đầu tiên. Do giới hạn của công nghệ thời đó, bộ điều khiển và phần cơ khí được tách riêng, nhưng robot mang tên WL-3 cũng đã thành công trong việc tái hiện các chuyển động cơ bản của thân dưới như bước đi, ngồi xuống và đứng dậy.
Cải tiến cơ cao su nhân tạo, 1969
Hệ thống máy kích hoạt bằng khí nén mang tên WAP-1 ra đời năm 1969 tiếp tục kết hợp các thành tựu trước đó. Cũng sử dụng các sợi cơ nhân tạo bằng cao su, WAP-1 đồng thời mang khả năng chuyển động trên hai trục (một cách hạn chế), tương ứng với chuyển động bước đi trên hai chân.
WL-5, 1970
Không chấp nhận dừng lại với các thành công trước đó, các thành viên đại học Waseda tiếp tục phát triển robot WL-5 với khả năng bước khi linh hoạt hơn, đặc biệt tiến bộ hơn người tiền nhiệm ở khả năng chuyển hướng. Dĩ nhiên, với các hạn chế của công nghệ thời bấy giờ, bù lại WL-5 chỉ có khả năng bước đi ở tốc độ siêu rùa: mỗi bước tốn trung bình 45 giây.
Wabot-1, 1973
Wabot-1 là mẫu robot đầu tiên mô phỏng toàn bộ hình dáng con người được chế tạo. Bắt đầu được tích hợp các cảm biến, Wabot-1 bao gồm một hệ điều khiển các chi phục vụ chuyển động, một hệ phân tích hình ảnh và một số thiết bị liên lạc. Cảm biến hình ảnh cho phép Wabot-1 ước lượng khoảng cách và phương hướng tới vật thế. Mẫu robot này thậm chí có thể cầm nắm các vật thể bằng cách sử dụng các cảm biến xúc giác.
WL-10RD, 1984
Tới mẫu robot WL-10RD, đại học Waseda đã thành công trong việc tích hợp cơ cấu mắt cá chân và khớp hông. Tận dụng phản hồi từ cảm biến tại các vị trí này, đây là mẫu robot đầu tiên có khả năng tự dịch chuyển trọng tâm giữa hai chân để chuyển động một cách linh hoạt hơn. Kết quả là tốc độ bước đi “kỉ lục” cho các robot thời bấy giờ: 1.3 giây/ bước.
Shadow, 1987
Năm 1987, Richard Greenhill sáng lập tập đoàn Shadow, chuyên về sản xuất robot và phát triển các công nghệ liên quan đến xây dựng robot. Hãng này đã góp nhiều công sức trong việc xây dựng các mẫu robot với khả năng hỗ trợ con người trong các hoạt động đơn giản thường ngày.
Manny, 1989
Trước các bước tiến của thế giới, quân đội Mĩ cũng quyết định không đứng ngoài cuộc chơi và đã xây dựng thành công robot Manny 1989. Đây là mẫu robot mô phỏng tốt nhất hình dáng con người tại thời điểm bấy giờ, nhưng đáng tiếc vẫn chưa có hệ thống trí tuệ nhân tạo hay cơ chế chuyển động tự động
P2, 1996
20/12/1996, tập đoàn Honda đã khuấy động Tokyo với sự xuất hiện của robot P2. Cao 1,8m và nặng hơn 200kg, Đây là một trong những mẫu robot đầu tiên được giải phóng khỏi hệ thống dây điều khiển và năng lượng phức tạp, nhờ hoạt động bằng pin.
(Nguồn hiendaihoa.com)